| CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM |  | 
1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 16
| TÙNG PHONG (NGÔ ĐÌNH NHU) | 
Thật ra  thì, vì sự minh bạch của vấn đề trình bày, nên, trong các phần trước, có  nhiều điều kiện nội bộ đã được đề cập đến. Dưới đây, chúng ta sẽ xem  lại toàn thể các điều kiện nội bộ, và nếu cần sẽ nhắc lại các điều kiện  đã bàn đến. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ gồm vào phần này những điều kiện  phát sinh ra do sự liên lạc của Việt Nam với các phần tử khác trong xã  hội Đông Á, và với các quốc gia đang tìm phát triển. Sự liên lạc, với  các quốc gia trong xã hội Đông Á, có thể xem là điều kiện nội bộ của  chúng ta, bởi vì chúng ta là một phần tử trong xã hội đó. Sự liên lạc,  giữa chúng ta và các nước đang tìm phát triển, có thể xem là điều kiện  nội bộ, bởi vì trong một thế giới do Tây phương và Nga Sô phân chia ảnh  hưởng như ngày nay, chúng ta và các nước đang tìm phát triển, đều ở vào  những hoàn cảnh có nhiều điểm tương đồng. 
Thật đúng ra thì, trong  phần này chúng ta sẽ phân tích tất cả các điều kiện đã, hay có thể, gây  cho chúng ta một cái vốn thuận hay một cái vốn nghịch, trong sự thực  hiện công cuộc phát triển dân tộc của chúng ta. 
Liên lạc với Trung Hoa. 
Từ  khi lập quốc, năm 939, đến khi bị sự tấn công của Tây phương và biến  thành một thuộc địa của đế quốc Pháp, hai sự kiện hoàn toàn chi phối  chín trăm năm lịch sử của dân tộc Việt Nam. 
Hai sự kiện đó là sự liên lạc với Trung Hoa và công cuộc Nam tiến. 
Trong  lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trưng Hoa, các biến cố xảy ra đều  do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập  của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh  thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu gồm  phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng  nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự  kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm  trên. 
Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập  của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh  Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam  hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của  Trung Hoa. 
Quan niệm Trung Quốc. 
Ý  cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung  Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc  mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung  Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa  thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà  Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống.  Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh  đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất. 
Trong 900 năm, từ năm 939 đến  năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu  thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần  toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà  Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục  như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo  đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính  sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng  Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung  Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục  vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung  Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra  cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa  lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gửi quân sang giúp một  nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc  quốc mà Trung Hoa đáng lý ra phải có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết  một kế hoạch chia đôi Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các  phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển.  Và ngay chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân  đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 17 trở lên phía Bắc, cũng vì lý do trên. 
Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. 
Họa  xâm lăng của Trung Hoa vừa tạm ngưng, vì sự tấn công của Tây phương, là  chúng ta lọt ngay vào sự thống trị của đế quốc Pháp. 
Ngày nay, ách  thực dân vừa mới cởi được, nhưng cái họa xâm lăng đối với chúng ta không  thể vì thế mà thuyên giảm. Bởi vì họa xâm lăng, do vị trí địa dư của  chúng ta và tình trạng nội bộ của chúng ta mà ra, và bao giờ hai yếu tố  đó chưa thay đổi được thì họa xâm lăng vẫn còn. 
Tâm lý thuộc quốc. 
Họa  xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch  sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo  của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng  bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc. 
Hai lần Lý Thường Kiệt và  Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những  chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ  danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế. 
Tâm lý thuộc  quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa,  lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng  giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các  nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho  sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã  đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà dân tộc  đã thực hiện được, Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia  có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt  hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng  của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta  không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao  nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại  giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy  nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều  ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc  Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ.  Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của  chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương  nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi đào và hữu hiệu hơn. 
Nhưng  thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của  dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị  ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường,  một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam. 
Sở  dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo triều Nguyễn của  chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao  rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì  các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nổi không  khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của  chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang  cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế  nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như  chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền  thống trị ở Việt Nam. 
Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng  với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình,  thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có  của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho  mình. 
Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến  thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên  đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng  chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm  lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều. 
Sự bành trướng  của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển  bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta. 
Nền ngoại giao  của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng  ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng  đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để  bảo vệ độc lập và lãnh thổ. 
Lỗi lầm trước đã như vậy đó. 
Trong  chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy  lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu  lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi  năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị  chúng ta trong hơn tám mươi năm. 
Chống ngoại xâm. 
Vì  vậy cho nên, chống ngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị  của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được  quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của  Trung Hoa, thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại  giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng  ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu  hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại  giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các  nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại  nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ. 
Chính sách chống ngoại xâm. 
Cái  họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao  những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây,  thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng  thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương? 
Trước  hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là  một vẩn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh  hai khối Trung Hoa và Việt Nam, thì như thế là đương phải với mục đích  đương nhiên, chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống  chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ  được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và  nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên,  những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề  được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta. 
Lý do thứ hai, là  công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự.  Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả  của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung  Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải  nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay,  độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới  hạn. 
Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại  xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có  đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu  thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta. 
Tuy nhiên  biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của  chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát  huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai  trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc  gia được nhiều người thấu triệt. 
Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được  ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến  chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các  đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi  nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc. 
Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. 
Vì  vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần  phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen  biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số  người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay  bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị  tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và  chính yếu của các cường quốc xâm lăng. 
Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng. 
Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên. 
Để  chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao.  Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu  hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân,  phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh  đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt. 
Sự  thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài  không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi  vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc  rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi  người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển, dễ đặt  để, và dễ sử dụng như một khí cụ. 
Bản chất của một chính thể chuyên  chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một  số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia  trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của  người cầm quyền. 
Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài  chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi  người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi  khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp  bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh  đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó  là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều  xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại  xâm. 
Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng  ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu  trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự,  đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý  thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân. 
Ngược lại, mấy lần dân tộc  thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh  quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà  lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân. 
Và  vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính  thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể  thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn  căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết  lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử  của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc. 
Nếu bây giờ  chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay  bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là  một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt.  
Công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam 
Công  cuộc Nam tiến và sự bang giao với Trung Hoa là trung tâm điểm của 900  năm lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc năm 939, đến lúc lâm vào sự thống  trị của đế quốc Pháp. 
Thật ra, chính vì áp lực, quá mạnh bạo  của nước Trung Hoa to lớn, và, vì sự sống còn của dân tộc, mà chúng ta  bị dồn vào thế Nam tiến. Bị đặt vào những điều kiện lịch sử và địa dư,  như những điều kiện mà chúng ta phải đương đầu, ngay lúc vừa lập quốc,  một dân tộc quen sống về nông nghiệp như chúng ta, có thể đưa công cuộc  bành trướng của chúng ta theo một hướng khác không? 
Vì sao mà trong  900 năm, chúng ta đi dọc theo bờ biển từ Bắc chí Nam, mà không lúc nào  chúng ta bị sự quyến rũ của trùng dương, đến mức vượt biển tìm đất sống?  Sự bành trướng duy nhất về phía Nam có phải là giải pháp duy nhất  không? 
Nếu, thay vì Nam tiến, chúng ta vượt dãy Trường Sơn và mang  sinh lực của dân tộc lên chinh phục vùng Cao Nguyên, thì vận mạng của  dân tộc có trở thành hứa hẹn nhiều hơn ngày nay không, cả về phương diện  trù phú cho toàn dân, về phương diện tính khí của con người và về sự  tiến hóa của văn minh của chúng ta. Trả lời tất cả những câu hỏi trên  đây là một điều vô cùng quan trọng, một mặt để tìm hiểu cái hay và cái  dở của sự lãnh đạo dân tộc trong dĩ vãng, và một mặt khác, để nhận thức  sự phát triển trong tương lai của dân tộc. 
Và, sớm muộn gì, các nhà  lãnh đạo của chúng ta, dưới sự thúc đẩy của thực tế, và sức bành trướng  tự nhiên của dân tộc, cũng phải tìm câu trả lời thiết thực cho các câu  hỏi trên. 
Trong các dòng dưới đây, mặc dầu tính cách quan trọng của  các vấn đề vừa mới nêu lên, chúng ta sẽ cố tình gạt bỏ một bên và không  đề cập đến những vấn đề đó. Chúng ta chỉ tìm phân tích cuộc Nam tiến của  chúng ta, từ dãy Hoành Sơn đến vịnh Thái Lan, trên phương diện hậu quả  mà cuộc Nam tiến ấy đã để lại cho dân tộc, và thử đánh giá cái vốn thuận  hay nghịch mà ngày nay chúng ta đang thừa hưởng. 
Lịch trình Nam tiến. 
Cuộc  Nam tiến của chúng ta bắt đầu thật sự năm 1069. Và chính Lý. Thường  Kiệt – một trong hai nhân vật Việt Nam duy nhất đã tìm cách đập phá  không khí thần phục nước Tàu lúc nào cũng bao trùm sự bang giao giữa  chúng ta và Trung Hoa – đã mở màn cho cuộc Nam tiến. Sau khi bị Lý  Thường Kiệt đánh bại, vua Chàm là Chế Củ bị bắt và cầm tù. Để chuộc  mạng, Chế Củ cắt ba châu, Bố Chánh, Địa Lý và Ma Lĩnh nhượng cho vua  Thánh Tông nhà Lý, hiện nay là tỉnh Quảng Bình, và phía Bắc Quảng Trị.  Công cuộc di dân bắt đầu, vào năm 1075 và dưới sự lãnh đạo của chính Lý  Thường Kiệt với tư cách Tổng trấn Thanh Hóa. 
Hơn hai trăm năm sau,  năm 1301, vua Nhân Tôn nhà Trần, để củng cố sự giao hảo giữa hai nước,  Chàm và chúng ta, đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chàm là Chế  Mân. Năm 1306, để rước Huyền Trân về triều, Chế Mân cắt nhường cho vua  Anh Tông nhà Trần hai châu Ô và Rí, nay là Nam Quảng Trị và Thừa Thiên.  Dân tộc Việt đã xuống đến đèo Hải Vân. 
Một trăm bảy chục năm sau,  năm 1471, vua Thánh Tông nhà Lê đánh bại vua Chàm Ban-ta-trà-toàn. Sau  đó tất cả phần đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông, gồm các tỉnh hiện nay  là Quảng Nam và Quảng Ngãi, Bắc Bình Định được xáp nhập vào lãnh thổ  Việt Nam. 
Năm 1558, khi Nguyễn Hoàng vào trấn tại Thuận Hóa, thì  lãnh thổ Việt Nam đã gồm tới đèo Cù Mông từ gần một trăm năm rồi, và  nước Chàm đã được xem như là bị tiêu diệt. 
Do đó, sự thôn tính phần đất còn lại của Chàm do Nguyễn Hoàng và con cháu, không còn khó khăn như xưa nữa. 
Năm  1611, Nguyễn Hoàng, muốn tăng cường lực lượng của mình để đương đầu với  chúa Trịnh phía Bắc, chiếm thêm phần đất chạy từ đèo Cù Mông xuống đến  Sông Cầu, Phú Yên ngày nay. 
Năm 1653, để trừng phạt vua Chàm là Bá  Thâm, vì tội muốn lợi dụng mậu thuẫn nội bộ của gia đình họ Nguyễn, chúa  Hiền lại chiếm cứ vùng đất chạy đến sông Phan Rang, hiện nay là tỉnh  Khánh Hòa. 
Năm 1693, Quốc Chúa, Nguyễn Phúc Chú thôn tính tất cả nước Chàm đến Bình Thuận ngày nay, sau khi bắt giam vua Chàm là Bá Tranh. 
Trước  khi nước Chàm bị hoàn toàn thôn tính, Việt Nam đã bắt đầu di dân sang  các phần đất bỏ hoang của nước Cam-Bốt tại hai địa điểm Mô Xóa (Bà Rịa)  và Đồng Nai (Biên Hòa). Từ thế kỷ XV, nước Cam-bốt, vì nội loạn và sự  tấn công không ngừng của Thái Lan đã bắt đầu suy sụp. Năm 1658, cuộc  khủng hoảng nội bộ trầm trọng đến nỗi vua Cam-Bốt xin thần phục chúa  Hiền, và cam kết triều cống và bảo vệ Việt kiều. Bắt đầu từ năm đó, làn  sóng Nam tiến của chúng ta đã tràn sang Cam-bốt. 
Năm 1690, thừa cơ  hội một cuộc nội chiến ở Cam-bốt, và vì lý do vua Cam-bốt không giữ lời  cam kết, Chúa Mại đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của Việt Nam, các  vùng đất có Việt kiều ở. Và năm 1698, để chính thức hóa tình trạng trên,  Chúa Mại thành lập hai tỉnh Tân Biên (Biên Hòa) và Phiên Trấn (Gia  Định) gồm các vùng có Việt kiều và người Tàu đã thần phục nhà Nguyễn, mà  hiện nay là các tỉnh Miền Đông, Gia Định, Long An và một phần Định  Trường. 
Năm 1732 các tỉnh Tiền Giang hiện nay, lại được đặt làm phủ  huyện của Việt Nam, và năm 1757, các tỉnh Hậu Giang, trừ An Xuyên, Hà  Tiên và một phần Kiên Giang. Tất cả các phần đất sau này, do Mạc Thiên  Tứ chiếm cứ và mở mang, mặc dầu đã được đặt thuộc quyển nhà Nguyễn từ  năm 1708, nhưng mãi đến năm 1780, Việt Nam mới kể là hoàn toàn chiếm cứ.  
Hai giai đoạn Nam tiến. 
Cuộc Nam  tiến tạo thành lãnh thổ hiện nay của chúng ta có thể xem là đã kéo dài  từ năm 1069 đến 1780, chia làm hai giai đoạn lớn. Giai đoạn từ 1069 đến  1693 đi từ dãy Hoành Sơn đến Bình Thuận và chiếm cứ các đồng bằng nhỏ bé  dọc theo Trường Sơn. Giai đoạn từ 1690 đến 1780, và chiếm cứ hết đồng  bằng hạ lưu sông Cửu Long. 
Thời gian hơn 600 năm, để chiếm cứ những  vùng đất nhỏ hẹp ở Trung Việt, và thời gian không đầy một trăm năm, để  chiếm cứ các vùng đất minh mông của đồng bằng sông Cửu Long. 
Sự khác biệt giữa hai thời gian trên là nguyên nhân của những hậu quả vô cùng quan trọng mà chúng ta phân tích dưới đây. 
Ngoài ra, những sự kiện lịch sử, đã xảy ra trong hai khoảng thời gian đó, góp một phần rất nặng vào những hậu quả nói trên. 
Trong  khoảng thời gian từ 1061 đến 1693, sự chiếm cứ tất cả các phần đất mới  lấy được của Chàm, mặc dù chúng ta phải đối phó với những phản ứng đôi  khi mãnh liệt của dân tộc Chàm, không hề bị ảnh hưởng tai hại của các  biến cố nội bộ. Vì đó mà việc di dân và tổ chức các đất mới, theo cơ cấu  xã hội Việt Nam được thực hiện một cách có qui củ và liên tục từ ngày  chiếm cứ. 
Trái lại sự chiếm cứ các đất ở phía Nam, lấy được của  Cam-bốt vào khoảng cuối thế kỷ 17, chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc chiến  tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, gây điêu tàn cho cả dân tộc từ Bắc  chí Nam. Vì vậy mà, các phần đất mới chiếm được, từ khoảng này về sau  không được hưởng một sự di dân và một sự đặt cơ cấu mới, có qui củ và  liên tục. So sánh những phần đất chiếm được ở Trung và ở Nam trong cuộc  Nam tiến chúng ta nhận thấy các điều như sau: 
* Các phần đất ở Trung nhỏ hẹp. 
* Các phần đất ở Nam rộng lớn. 
Trong sáu trăm năm chúng ta mới chiếm được các phần đất ở Trung đi từ dãy Hoành Sơn đến Bình Thuận. 
Trong không đầy một trăm năm chúng ta chiếm được cả đồng bằng hạ lưu sông Mê-kông. 
Các phần đất ở Trung phần sau khi chiếm được, chúng ta đều có một thời gian dài và yên ổn để di dân và tổ chức cơ cấu xã hội. 
Đối  với các phần đất ở Nam phần, vừa sau khi chiếm được, chúng ta bị chiến  tranh nội bộ tàn phá, cho nên cuộc di dân rất hỗn độn và sự tổ chức cơ  cấu xã hội vô cùng thiếu sót. 
Vì những lý do trên cho nên sự chiếm  cứ các vùng đồng bằng ở Trung phần tuy là chưa hoàn bị nhưng cũng có thể  xem là tạm xong. Trái lại cuộc chiếm cứ đồng bằng hạ lưu sông Mê-kông  hoàn toàn chưa xong. 
Sau khi thống nhất quốc gia năm 1802, Nguyễn  Triều bắt tay ngay vào việc kiến thiết quốc gia, nhưng chỉ năm mươi năm  sau, chúng ta bị Tây phương tấn công, và tiếp theo đó, bị đế quốc Pháp  thống trị. Trong khoảng năm mươi năm, dầu nỗ lực đến đâu, nhưng với cái  tốc độ của những biện pháp lúc bấy giờ, nhà Nguyễn cũng chỉ có thể củng  cố địa vị, và nhiều lắm là tạm hàn gắn các vết thương của mấy thế kỷ nội  chiến. Và năm chục năm, vừa hơn một thế hệ, chưa đủ để cho sự tổ chức  cơ cấu xã hội, ở các vùng mới chiếm cứ, có thời giờ ăn rễ một cách đủ  bảo đảm cho sự tồn tại của các truyền thống dân tộc. Đó là trong trường  hợp mà các nhà đương quyền có thật sự nhận thức việc tổ chức cơ cấu xã  hội là một công cuộc tối quan hệ, cần được xem là trọng tâm. 
Nhưng  về điểm này, các sử gia của chúng ta sau này, cần sưu tầm xem việc tổ  chức cơ cấu xã hội ở các vùng mới chiếm cứ trong Nam, có phải là mối lo  âu của Nguyễn triều không. Tới nay, chưa có tài liệu nào xác nhận điều  đó. 
Nhiều hậu quả. 
Một sự kiện có  thể là một nguyên nhân khác, thuộc về loại nhân sinh, của sự chiếm cứ  chưa rồi của chúng ta, đối với miền Nam. Trong tám trăm năm, dân số của  chúng ta, sinh sống ở đồng bằng sông Hồng Hà và các đồng bằng con con ở  Trung Việt, đã có một mức gia tăng trung bình. Mỗi khi nhân khẩu lên  cao, áp lực thúc đẩy chúng ta chiếm thêm đất cày ruộng. Nếu căn cứ theo  nhận xét rằng, trong sáu trăm năm áp lực nhân khẩu của chúng ta có thể  thỏa mãn được, bằng sự chiếm cứ thêm các vùng đồng bằng con con ở Trung  Việt, thì áp lực ấy không to lớn lắm, và do đó, tỷ lệ gia tăng của dân  số có một mức nhất định. Đột nhiên, chúng ta mở được cửa của vùng đồng  bằng Mê-kông. Nhu cầu di dân, để chiếm cứ các vùng đất mới, vượt quá sức  sinh sản của chúng ta. Do đó, chúng ta không đủ dân số để chiếm cứ đồng  bằng sông Cửu Long. Sự kiện trên đây cần được xác nhận bằng những con  số về dân số của chúng ta từ những năm 1000 trở về sau, điều mà, trong  tình trạng hiện nay, khó cho chúng ta có được. 
Đúng ra, sự chiếm cứ  có thể thực hiện được bằng những cuộc di dân lớn lao và có tổ chức, để,  đồng thời, tháo áp lực nhân khẩu miền Bắc và di dân vào Nam. Đằng này,  chúng ta chỉ thấy sử sách chép lại tổ chức đinh điền và đồn điền của  Nguyễn Tri Phương ở miền Nam, một biện pháp đã có thành quả khi chiếm cứ  miền Trung, nhưng rõ ràng không xứng đáng với công cuộc chiếm cứ đang  đợi ở miền Nam. Trong khi đó triều Nguyễn phải dồn nhiều nỗ lực mở mang  miền Bắc để nuôi dân, như công cuộc khai khẩn của Nguyễn Công Trứ ở Thái  Bình và Ninh Bình. 
Các sự kiện trên chứng tỏ quan niệm không thích  nghi của nhà Nguyễn đối với các đại công tác trên lĩnh vực quốc gia lúc  bấy giờ, vừa trên phương diện trọng tâm vừa trên phương diện vị trí địa  dư. Những lý do chính trị, trong đó sự kiện lòng dân chưa định là một,  có thể ảnh hưởng đến các quyết định của Nguyễn triều đối với miền Bắc.  Nhưng, chúng ta sẽ thấy dưới đây, hậu quả chính trị của các biện pháp  trên của Nguyễn triều còn tai hại gấp mấy lần các hậu quả kinh tế và  nhân sinh. 
Một phần đất mới chiếm cứ, trên đó dân cư thưa thớt, tổ  chức xã hội chưa có, tập quán cổ truyền của dân tộc chưa cố định trong  đời sống thường ngày của dân chúng, ý thức quê hương xứ sở chưa ăn rễ  vào khung cảnh mới, là một nhược điểm trên thân thể quốc gia, về phương  diện quốc phòng. Đó là những nơi mà kẻ xâm lăng đánh vào trước hết, bởi  vì họ cũng ý thức rằng, sức kháng cự của một lớp dân chúng chưa mọc rễ  vào địa phương chắc chắn sẽ không đáng kể. Và, đương nhiên, những nơi đó  là những vùng mà họa xâm lăng, một đe dọa thường trực đối với các quốc  gia nhỏ, như quốc gia chúng ta, có thể bắc cầu, một cách hiệu quả, để  lan tràn khắp đất nước. Vì vậy mà, miền Nam dưới Triều Nguyễn, đã trở  thành một vùng hiểm địa cho toàn lãnh thổ. 
Lịch sử đã xác nhận các  sự kiện trên. Người Pháp hai lần tấn công nước ta, đều đánh trước tiên  vào miền Nam, lần đầu năm 1860 và các năm kế tiếp. Lúc bấy giờ như trên  chúng ta đã thấy, sự chiếm cứ của chúng ta đối với miền Nam hoàn toàn  còn đang dở dang. Tám mươi lăm năm dưới sự thống trị của Pháp, cố nhiên  là, chẳng những các dinh điền của Nguyễn Tri Phương đều bị tan rã, mà  lại sự chiếm cứ của chúng ta, nếu có tiếp tục vì áp lực nhân khẩu đương  nhiên, đã được thực hiện một cách hỗn độn, vì thể theo quyền lợi của các  tổ chức kinh tế thực dân Pháp, chớ không làm sao theo đường lối ấn định  bởi quyền lợi của dân tộc. Vì thế cho nên, sau tám mươi lăm năm, sự  chiếm cứ của chúng ta đối với miền Nam vẫn ở trong tình trạng dở dang  như trước. Và vì thế cho nên, lần thứ hai năm 1945, người Pháp, ngoài  các lý do kinh tế và quân sự, lại đánh chiếm miền Nam trước, một lần  nữa.
| Kỳ Trước | Kỳ Sau |